Hiển thị các bài đăng có nhãn làm công. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn làm công. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 21 tháng 1, 2014

Không ngoài tình yêu



nguyên bản giàu tính viễn vong và đầy vẻ vời - trích lời điều tra viên tổ trọng án tây cửu long ICAC; vốn chẳng ăn nhập gì đến tít bài. 


*


công cuộc cốt tử của làm nhà văn chính là viết; như là căn cứ đặc thù để phân biệt giữa làm nhà văn với làm thợ sửa ống nước, nhân viên văn phòng hay là ông luật sư, chẳng hạn. vậy, xen giữa những lần viết thì nhà văn làm gì? Tức là, hình tượng hơn, giữa những cuốn tiểu thuyết nhà văn làm gì? Với Pamuk, như một biểu tượng thành công của nghề văn, ấy là Những màu khác - một tập hợp của những phân mảnh vụn vặt suốt (hơn) ba mươi năm hành nghề tiểu thuyết.

tích cách phân mảnh không chỉ được chính tác giá nhắc đến ngay ở lời tựa mà còn được trình hiện như là vô số lối rẽ xuyên suốt hơn 400 trang của tập sách. Pamuk viết về bất cứ điều gì có thể, như chính ông thừa nhận, ngõ hầu thỏa mãn cơn đói khát và tham lam của kẻ cuồng viết bên trong mình.Với đôi mắt tò mò và lòng nhiệt thành ngây thơ của một đứa trẻ.

Cũng bởi vì vậy, hạn chế lớn nhất của tập sách này, cũng như đối với thể loại tuyển tập, là sự tản mát của đề tài. Người đọc khó mà tìm thấy một công cuộc viễn du đơn nhất dài hơi tương xứng với độ dài những trang viết này. Trái lại, khả dĩ tìm thấy những lát cắt chắt ngọt về những đứt gãy của đời sống hiện đại, về quá khứ huy hoàng, về cuộc đời nhỏ mọn này, và nhất là, về hai tình yêu lớn lao nhất đời Pamuk: văn chương và Istanbul. Ông viết cho những giấc mơ chưa kịp tỏ bày; viết – như một phương cách để lại những giấc mơ.

[Như cánh hải âu tung bay huy hoàng dưới cơn mưa lấp phất trong ánh chiều vàng vọt về trên vịnh Bosphorus. Như đứa trẻ mong ngóng được trở về. Nhà.]




Chủ Nhật, 11 tháng 12, 2011

Nhạc đời may rủi


*em chỉ dịch thôi.


A DIE

What my imagination refers to, in making this work, is exactly the dice. I use the possibility of luck in throwing the dice to imply the luck of the draw when taking the pills. It seems like you got ill, you went to the pharmacy to get the pills and you took the pills but you really don’t know whether they were real or fraud. And noone does.

The work is a set of 03 small sculpture cubes whose shapes are dice-alike. They are made of by the mixing of concrete and grinding stones – the popular mixing of materials used in making the stone benches in the public places, such as hospital, park, school or gravestone.

Each faces of the trio cubes has labeled respectively. So every time you throw a die, you’ll have the same chance to get, for instance, either this or that face with its own label. Hence, whenever throwing the dice, you’ll get 3 out of 18 labeled faces.

Here is the labels on each face of the three dice respectively:

Die No. 1:

  1. Real
  2. Fraud
  3. Real
  4. Fraud
  5. Real
  6. Fraud

Die No.2:

All faces are ‘Fraud’.

Die No.3:

  1. A Child
  2. A Man
  3. A Girl
  4. A Woman in pregnancy
  5. A Woman
  6. The Elder

The battle against medicine fraud, in which we are involved, is apparently not a fair game. These dice are the metaphor for the cheating side of this game. And sometimes it stakes a life of a human being on the betting.














Thứ Hai, 5 tháng 12, 2011

Thư Đan Mạch


*bản đầy đủ không qua bàn tay sắt thép của ê-đít-to.



Lúc bắt đầu xách ba-lô quả mướp từ Sài Gòn sang Copenhagen, tôi cứ nghĩ chỉ là một chuyến đi ngắn, rồi sẽ quay về nhanh, về với gia đình, bạn bè và tình yêu đang đợi chờ. Thế mà thấm thoắt đã hơn hai năm, và tôi vẫn miệt mài trên con đường sự nghiệp, vỏn vẹn được 2 tháng về chơi sau 1 năm đầu. Tôi là một kẻ vô thần, lúc ở nhà cứ nghĩ Giáng sinh thì ra đường chơi với bạn, thế thôi. Sang châu Âu, được nghe thêm về các câu chuyện Giáng sinh ở các nước khác nhau và các tư tưởng thiên chúa giáo mà nhiều thằng bạn nhồi nhét vào, tôi cũng chẳng tiến bộ thêm là mấy. Với tôi ngay lúc này đây, Giáng sinh cũng chẳng là gì, nếu thiếu gia đình, bạn bè và những điều nho nhỏ, những thứ tôi đã trải qua nhiều năm về trước ở cái thành phố nóng nực và đầy khói bụi như Sài Gòn. Vì giờ đây, có muốn thế cũng không được nữa, không được nữa trong ít nhất 3 năm.

Đã hai Giáng sinh ở đất khách, mỗi giáng sinh ở một nước khác nhau, và sắp tới là một nước thứ ba khác, trong tôi chắng có cảm giác háo hức gì đặc biệt, ngoài việc được nghỉ làm đôi ngày và đi hít thở không khí ở những chỗ khác nhau.

Năm đầu tiên xa nhà, tôi và thằng bạn thân đang học ở Pháp đi lòng vòng vài nước châu Âu chơi cho có cảm giác, ít nhất là được nói tiếng Việt với nhau. Đêm Giáng sinh, chúng tôi chơi lòng vòng Barcelona, đi dạo trên con phố đầy màu sắc La Rambla. Xa xa bên kia đường là cái đài phun nước đầy những xe máy đỗ san sát nhau và các cậu thiếu niên đang ngồi đấy tán chuyện. Cảnh đấy làm tôi phải gọi ngay cậu bạn vì nó giống làm sao với hồ Con Rùa cùng những hàng kem và quán cafe ở Sài Gòn. Y hệt như thế, không sai đi đâu được. Ngay khi đặt chân đến La Rambla, những kí ức về những lần đi dạo trên đường Đồng Khởi Giáng sinh năm nào cùng đám bạn thân ùa về, cũng những ánh đèn lấp lánh đầy màu sắc, cũng những bước chân đi bộ và cái nắm tay của những cặp tình nhân. Sao lại có sự giống nhau đến kì lạ giữa Barcelona và Sài Gòn thế. Có thể vì thực tại, cũng có thể những mảnh kí ức trong tôi vẽ lên điều ấy. Ngày ấy, bọn chúng tôi 7-8 đứa gửi xe bên thư viện đại học quốc gia, đi bộ từ hồ Con Rùa qua phố Hàn Thuyên rồi đến đường Đồng Khởi, rồi ghé sang Lê Lợi, Nguyễn Huệ. Cứ nói chuyện tào lao và nhìn người ta đi lại, nhìn những cảnh trang trí sáng loáng của những cửa hàng san sát nhau. Rồi chúng tôi dừng chân ở Bưu điện Thành phố gần nhà thờ ngồi uống cafe sữa và chờ tiếng chuông 12 giờ. Cafe sữa, cái thứ cafe đặc sệt với sữa đặc có đường, 2 năm rồi tôi không được nếm ở cái xứ lạnh lẽo này. Đơn giản thế thôi nhưng sẽ không bao giờ có được những lúc như thế nữa, không bao giờ… Vì, lúc tôi về, mọi thứ sẽ đổi thay: bạn bè lập gia đình, quang cảnh, con người cũng khác xưa, sẽ không thể có những giây phút ”cổ điển” như những ngày trước…

Giáng sinh năm thứ 2, tôi bận rộn, không đi chơi đâu thì thằng bạn cùng nhà phóng sang London. Tôi ở 1 mình trong căn phòng tầng hầm thuê của ông chủ nhà người Đan Mạch. Giáng sinh, họ cũng về nhà con cái chơi. Tôi nhớ lúc ấy đã lạnh lắm rồi, tuyết cũng bắt đầu dày thêm. 10 ngày được nghỉ học dịp Giáng sinh, tối nào tôi cũng ra đường đi bộ đến khi lạnh cóng thì về. Tôi không chịu được cái không khí một mình trong căn hầm tối và thiếu không khí như thế. Mặc những bốn cái áo, tôi lững thững đi bộ dạo quanh những con phố chính của Copenhagen và bật những bản nhạc vẫn nghe trong điện thoại. Đường vắng tênh, cứ tưởng như chỉ còn lại mình tôi với những ánh sáng phát ra từ những chùm đèn và cây thông Noel. Giáng sinh Bắc Âu khác quá, làm gì có cảnh chen chúc đông người hoặc chờ gửi xe những 10 nghìn như Sài Gòn. Và làm gì có ai để nắm tay để con tim ấm áp hơn. Tôi nhớ bạn gái vô ngần. Có một bữa đi bộ như thế, tôi thấy vài cô gái tóc dài mặc váy hoa đi phía trước chừng 10m và điều đấy làm tôi nhớ đến ngày đầu tiên chúng tôi đi chơi với nhau lúc giáng sinh 4 năm về trước. Lúc đó, tôi và cô ấy mới quen nhau, quen qua đám bạn thân mà tôi vừa kể. Cô ấy xinh, trẻ và đầy sức sống, và cũng chính điều đấy làm một thằng ”hai lúa” như tôi từng nghĩ rằng mình không thể với tới. Nhưng cũng may là chính chuyến đi chơi Giáng sinh ấy làm chúng tôi xích lại gần nhau và có được mối quan hệ gắn bó như hiện nay. Lúc đó, tôi rủ cô ấy đi chơi nhưng được bảo rằng phải có anh bạn cùng nhóm đi, cô ấy mới đồng ý. Và rồi chúng tôi ăn kem ở nhà hát thành phố, và đi bộ loanh quanh. Lúc về, tôi và anh bạn đi bộ cùng cô ấy về nhà, cô ấy cũng mặc váy hoa, đi bộ trước tôi 10m và thi thoảng quay lại liếc bảo chúng tôi đi nhanh lên. Như thế thôi, chuyến đi bộ đêm Giáng sinh trên đường Trần Hưng Đạo đấy đã kéo chúng tôi lại gần hơn. Và với tôi, kỉ niệm giản dị đấy đã và đang là một điều thật đáng nhớ của tôi trong cuộc đời ngắn ngủ này. Nó cũng đơn giản, đơn giản như chính con người tôi vậy…

Giờ đây tôi chuẩn bị đón Giáng sinh thứ 3 trên đất Âu, lần này sẽ là Prague. Tôi không cần biết điều gì đang chờ tôi nơi đấy, nhưng ngay lúc này đây, tôi chỉ ước Prague là Sài Gòn, và những người bạn đồng hành là nhóm bạn ngày nào, là bạn gái tôi. Và tôi cần cốc cafe sữa. Chỉ thế thôi!


N.







Thứ Năm, 23 tháng 6, 2011

Nỗi buồn đi cầu



1. Tưởng tượng có hai đường bắt chéo nhau trong không gian; hai đường cong phẳng lồi không đồng phẳng, không song song với nhau nằm trong không gian ba chiều sao cho xét đoạn AB và CD chéo nhau có đạo hàm không đổi dấu trên toàn đoạn, và chọn hệ trục tọa độ sao cho AB luôn nằm trên CD. Tức là ta đang xây dựng một mô hình hiện thực hóa của mô tả nước chảy qua cầu. Tức ở đây là trường hợp của nước và cầu không trùng nhau; nếu gọi AB là cầu và CD là dòng nước.

Rõ ràng là nước và cầu không tiếp xúc với nhau: nước đi đằng nước, cầu nằm đằng cầu. Và tùy vào khoảng cách giữa cầu và nước, mà những cú cắm đầu xuống trở thành tắm cầu hay tắm máu; đó là một chuyện khác nữa. Chuyện này đến đây không nói nữa. Cắt. Chuyển cảnh.

Tiếp tục xây dựng các mô hình hóa của mô tả nước qua cầu; xét trường hợp đặc biệt hai đoạn vuông góc với nhau: như trên. Cắt. Quay lại.

Xét trường hợp đặc biệt hai đoạn trùng nhau, nghĩa là nước ở trong cầu giật nước phát trôi cbn đi dzồi còn đâu nữa mà xem với chả xét.


2. Lại nói chuyện đàng hoàng. Hình dung bạn đến một quán nhậu vỉa hè, bàn nhựa bày ngoài trời và ghế dựa có tay cầm. Bạn đến để ăn, để uống, để trò chuyện, để hút thuốc; nhất thiết bạn (phải) là gái (không nhất thiết phải là con gái). Cái cảm giác là gái, với váy hoa, ngả người trên sofa phù phà khói thuốc cũng có phần tương tự như (nổi) lềnh phềnh trong (bể) trời: nó huyền diệu, nó hoang đường, nó mộng mị, và nó rất gái. Nhất thiết phải là gái, bởi vì bấy giờ sau khi no nê có phần phủ phê mà tê tê, bạn rời khỏi bàn và chuẩn bị đi về. Dĩ nhiên bạn không thể nhớ được mình để quên cái gì nơi cái bàn bạn đang rời đi đó. Bạn không thể nhớ được vì những lời này không phải là để nhắc cho bạn nhớ mà là nói chuyện đàng hoàng: người đàng hoàng sẽ không làm điều xấu, họ sẽ không nổi lòng tham muốn chiếm lấy cái bạn để quên đấy làm của riêng. Họ sẽ ngay lập tức gọi bạn lại nhặt; họ thường là một trong những người ngồi cùng hoặc gần bàn của bạn; họ cũng thường không hút thuốc.

Tử tế lại là chuyện khác. Khác với người đàng hoàng, người tử tế không gọi nhắc bạn nhặt, người tử tế cũng không ngồi gần hay ngồi cùng hay ngồi chung liên quan với cái bàn của bạn: họ, có thể, chỉ đơn giản là người xuất hiện đúng nơi, đúng lúc, và gặp đúng người: bạn. Vì họ không gọi nhắc nên bạn không quay lại nhặt, nên bạn khật khưỡng, nếu có, mà đẩy xe ra, khật khưỡng, nếu có, mà vén váy đội nón rồi khật khưỡng, nếu có, dong xe về nhà. Người tử tế không xuất hiện lúc này, mãi một lúc sau khi bạn về nhà rồi họ mới xuất hiện: người tử tế, ở đây, là hắn xuất hiện với gương mặt chả thấy quen được một xị nào, có thể cười hoặc không, tay cầm gói Marl đỏ còn ba điếu mà nói: "Bạn/em để quên này." Bạn chẳng hề quen hắn, nhưng hắn thì biết bạn, rõ lắm, cô gái váy hoa hút marl đỏ uống bia sài gòn (nhiều) một mình trong quán. (Đấy, thấy làm gái váy hoa lợi hại chưa!)

Đến đây thì âu cũng cần nhắc lại câu này: Đời giờ đéo tin được bố con thằng nào; kể cả thằng này. Nghĩa là trong kỷ nguyên hậu hiện đại mà thời đại bất định này, bất cứ chuyện gì cũng có thể xảy ra, kể cả chuyện tử tế của một bao marl đỏ còn ba điếu.

Đương nhiên nhận xét là thuộc/của, ở đây là, người đọc. Không thể gán nó cho người viết được, cho dù đó là một trường đoạn tự sự thành thật tuyệt đối của người viết, bởi vì một khi những nhận định đó được viết ra thì lập tức nó trở thành một sự hư cấu và xô dạt khỏi bản thể người viết, mặc cho những mối liên hệ khởi phát của chính nó. Tóm lại, sự thành thật không thể tồn tại giữa những dòng chữ của người viết, nếu có chăng, chỉ có thể gọi đó là tận dụng sự thành thật của người viết không nhằm vào mục đích gì ngoài việc tạo nên cái không khí chân thật mà khiến cho người đọc bị dẫn dụ.

Vậy người viết dẫn dụ người đọc làm gì? Chuyện này đến đây không nói nữa.



3. Anh là cái đéo, hay không là cái đéo, thì mọi chuyện vẫn thế.

Rồi cũng nhẹ như nước trôi qua cầu, muốn cũng không sao níu lại được.



Tất thảy chẳng còn lại gì: nỗi buồn ga cuối còn nguyên.




















Thứ Ba, 6 tháng 4, 2010

The catcher in the rye*




*lượm về liền :))


What if the sun don’t shine no more? As if, the people do not need to wake up in the morning; there is no more OSIMAs - Oh Sh!t It's Monday, Again! - or TGIFs; no eight days a week for weekends with all the fun; and no Beathes at all. It’s obviously a joke but not quite funny.

The good news is that this very likely ending is yet to come but the bad is we’re already late:the earth is running out of its patience. So does our hope.

The need of acting is so obvious a reason for an act as well as for a revolution. But revolution could not come alone itself. It's just a symbol of something no longer new; something needed to be real. Something must be achieved.

In case human being were not the human being, there would neither be such a reason to be concerned about nor any other stories to be told: we should rather wander around and be chewing the grass instead of sitting in the chair and reading these words. As we are the humanity, we must do something.

For the time the last one of human species could be on earth is too short in compare with the longevity of the universe, or in particularly, this earth. And anyone of us can be dead long before those things come to its end. That is apparently true; what we do today may be not worth a thing tomorrow. But rather be giving a try than do nothing at all; lighting up a candle is much better than leaving all in the dark.

Because there’s a hope that never could be abandoned; there’s a hope that we never give up on; there’s a hope of our still living or dead people from the very beginning of life: the hope for a better world to live. That could be and should be the reason for our being – the reason of being: for the next catcher coming through the rye.

So Wake up! and let’s do something. It’s all up to you.






Thứ Hai, 11 tháng 1, 2010

trẻ con biết nói dối.


đổi đề, bỏ tiêu, sửa chữ, cơ bản là vầy.



Một dạo, tờ báo danh tiếng của tuổi trẻ thành phố đã cho đăng loạt bài bàn về một vấn đề xã hội không cũ: đạo đức; đối tượng được nhắm tới và cũng là những người lên tiếng mạnh mẽ nhất thông qua đó chính là những người trẻ: có người đồng tình, có người ủng hộ và có cả những tiếng nói bức bối: "Trung thực, tôi được gì?". Vậy trung thực người ta được gì?

Chưa nói tới ích lợi của việc nói dối hay nói thật, chỉ riêng việc đặt câu hỏi cho tính trung thực đã nói lên được một điều: người ta chỉ nghi ngờ sự hiển nhiên của cái gì đó khi cái hiển nhiên đó không thật hiển nhiên. Và hiển nhiên những gì chúng ta thấy hằng ngày là những hiển nhiên "chân thật" nhất. Có lẽ vì vậy mà chúng ta dễ dàng chấp nhận những lời nói không thật hơn chăng?

Định nghĩa được thế nào là nói thật và thế nào là nói dối, thật không phải là điều dễ dàng. Càng không dễ dàng để nêu lên rõ ràng khi nào thì nên nói thật và khi nào thì buộc phải (do bởi) nói dối - hoặc nói không thật. Chúng ta vẫn cứ nói thật và nói dối đều đều, mặc dù thật sự không dễ, hoặc là không thể, xác định được chính xác thời điểm bắt đầu của những lời nói dối. Không chỉ của những lúc hôm nay, mà tận hồi chúng ta còn bé: lời nói dối bắt đầu xuất hiện khi nào?

Ai cũng từng là trẻ con; ai cũng từng ít nhất một lần nếm phải "đòn roi" vì lỗi nói dối. Sự nghiêm khắc là cần thiết, hoặc ít ra, bày tỏ thái độ nghiêm khắc và dứt khoát với sự dối trá là một trong những hành động thông thường của phần nhiều các bậc cha mẹ: đối xử cứng rắn, đôi khi biểu hiện thành roi vọt, là cách thể hiện mong muốn giáo dục trẻ con thành người tử tế, mong muốn giúp trẻ nhận thấy đâu là đúng, đâu là sai, những điều tốt đẹp. Cho dù điều hiệu quả và tác dụng thì không ai có thể chắc được.

Khác với người lớn, trẻ con chưa có được những kinh nghiệm sống chung, cũng như sự kiểm soát về mặt xã hội. Trẻ tương đối mù mờ đối với những tiêu chuẩn - khái niệm đạo đức phổ quát, vì đó cho nên, đương nhiên, tỏ vẻ dửng dưng với những điều hiển nhiên đã được chấp nhận khác. Tuy nhiên, trẻ con cũng có những mối quan tâm riêng, hệt như cách người lớn quan tâm đến gia đình, tiền bạc và các vấn đề xã hội vậy. Khác biệt nằm ở quá trình kiểm soát; người lớn có thể duy trì một tình trạng từ khước những mong muốn của bản thân, nếu điều đó có ảnh hưởng xấu hoặc không tốt tới những mối quan hệ xã hội khác, hoặc nói đơn giản, là có mâu thuẫn với lợi ích của một người khác. Trong khi đó, trẻ con thể hiện sự quan tâm và mong muốn trực diện hơn, thẳng thắn hơn, vì vậy, ít có sự kiềm chế hơn.

Khi bị từ chối, hoặc ngăn cản, đứa trẻ sẽ phản ứng bằng cách tìm kiếm những phương cách ít trực diện hơn, những lý do lòng vòng hơn để biện minh cho mong muốn của mình, ít ra theo cách đó, đứa trẻ mong muốn có thể tiếp cận (gần hơn) với cái mình muốn. Hiển nhiên, thường xuyên người lớn nhận ra sự lập lờ ở một đứa trẻ (giống như lơ ngơ mà đem đặt cạnh lọc lõi vậy). Nếu hệ quả không nghiêm trọng và chưa có gì đáng tiếc, đa phần là vậy, đứa trẻ sẽ được khen là "thông minh" và "biết chuyện", cùng lắm là được quẳng cho một chữ "xạo". Nhưng với trường hợp có hệ quả là không mong muốn và (thấy) có phần trầm trọng, thái độ của người lớn sẽ nghiêm nghị hơn, và "hình phạt" sẽ thể hiện tính răn đe rõ ràng hơn. Đứa trẻ sẽ được dạy bằng "đòn roi" rằng mình đang nói dối, bởi nói dối là không tốt và "đòn roi" thì thấm sâu, nhớ lâu hơn lời.

Hiển nhiên, nói dối là không tốt.

....


Thực ra, nói dối là khái niệm hoàn toàn người lớn. Nói đơn giản hơn, trẻ con không biết nói dối, nếu có biết, là nhờ sự hời hợt trong cách ứng xử của người lớn đối với trẻ con.

Không như người lớn, trẻ con không có mối quan tâm đa mục tiêu như người lớn, cũng như chưa hề, hoặc không hoàn toàn, quan niệm về sự thật như cách của người lớn; những gì chúng thấy, những gì chúng nghĩ đều là (đối với chúng) sự thật. Hơn nữa, mối quan tâm và cách quan tâm của chúng giản dị hơn nhiều, so với cung cách tương ứng ở một người lớn: chúng đơn giản chỉ biết nghĩ tới cái mình muốn và làm mọi cách để thỏa mãn điều đó; chúng đơn giản là rất hạn chế trong khả năng nhận ra các hệ quả và các mối liên hệ giữa cái mình muốn và những tồn tại xung quanh. Trái lại, với quá trình tích lũy kinh nghiệm lâu dài có được nhờ sự cọ xát qua các hoạt động mang tính xã hội, nên người lớn có xu hướng để ý và khả năng nhận biết các hệ quả phụ không mong muốn (có thể) xảy ra đồng thời. Song song với quá trình tăng lên về mức độ nhận biết, người lớn cũng (phải) quen dần với việc nói dối hoặc bị nói dối, có hoặc không mong muốn, ít hay nhiều sự chủ tâm, hoặc từ sự truyền dạy từ những người lớn lớn trước nữa. Bị thói quen xâm chiếm, người lớn cũng quen luôn với việc nhìn nhận những hành động của trẻ con với thái độ đối với một người lớn, như là hành động của một người lớn, như mình hiện thời. Họ (lại) đứng vào vị trí truyền dạy đối với những trẻ con của hôm nay, hệt như cái cách họ được đối xử khi còn là trẻ con vậy. Và cái sự lẩn quẩn (vẫn) tiếp tục quay vòng.

Chúng ta, những người lớn xấu xí, đã (lại) chọn một cách thật tệ hại để bắt đầu (lại) tương lai.

....


Chuyện nói thật hay nói dối là một chuyện khó lòng nói cho thõa, nhưng có thể ví von, một cách khập khiễng, như ca sĩ hát thật hay hát nhép (lip-sync). Hát thật thì (giọng) phải tốt, phải khỏe; muốn thế phải tập luyện nhiều, đồng nghĩa với việc tiêu tốn không ít thời gian lẫn cơ man nào là mồ hôi, sức khỏe. Nhất là sự kiên trì. Hát nhép đơn giản hơn nhiều, mà thậm chí chẳng cần hát. Nhưng một khi chẳng cần phải hát cũng có thể trở thành ca sĩ thì ca sĩ cũng chẳng còn là ca sĩ nữa.

Tất nhiên việc gì cũng có ngoại lệ và mọi lý luận đều là màu xám. Không thể xem xét và đánh giá điều gì chỉ thuần dựa trên lập luận, hoặc dựa trên hạn hữu những gì thực trông thấy. Cuộc đời vô cùng. Tốt hay xấu không phải là chuyện để đánh giá (lại) hoặc nhận xét suông; cuộc sống không thể cứ mãi đứng mà chờ đúng đắn soi đường. Có khi điều xấu lại là khởi đầu cho một tốt đẹp liền sau.

Nhưng điều đó không quan trọng. Vấn đề quan trọng, và cũng là câu hỏi (được) đặt ra: bạn, những trẻ con một nửa đang và đã trở thành người lớn một nửa, có sẵn sàng để trở thành, cho dù là, một ngoại lệ, hay không?







Chủ Nhật, 10 tháng 1, 2010

Bạn đã từng nói dối chưa?



... Mình có, không chỉ đã từng mà còn rất nhiều lần nữa. Thậm chí mình còn biết rằng, sau này, mình còn nhiều nhiều lần, nói dối nữa. Thật là tệ! Mình không thích nói dối, mình thích nói thật. Nhưng mà ngày ngày mình vẫn nói dối như cuội. Mình chán mình quá đi!

Mẹ cũng hay bảo mình không nên nói dối, và nói dối là xấu. Mình cũng biết vậy, nhưng mà mình vẫn nói dối như thường. Mình cũng buồn lắm chứ. Nhưng mà mẹ cũng có, nói dối ấy, thường lắm. Như cái lần mẹ gặp cái cô vừa to vừa béo, vừa nói vừa cười vừa mưa phèo phèo như tắm người đối diện. Khó chịu hết sức! Thế mà mẹ vẫn cười nói vui vẻ, lại còn tấm tắc khen cô ấy có giọng cười khỏe khoắn và trong trẻo. Mà, mình có nói cô ấy vận một bộ đầm bó sát người, để lộ ra từng ngấn cong trên người chưa nhỉ? Đấy, mẹ mình đã khen thế đấy. Và trong khi cô ấy cười tít mắt, thì mẹ húng hắng ho và tảng lờ nhìn chỗ khác. Cô ấy là một khách hàng tiềm năng; khi về, mẹ đã nói thế.

Bố cũng có, nhưng mà không phải nói dối, bố nói không thật. Mẹ bảo thế. Quá bữa cơm tối chưa thấy bố về, mẹ lại bảo là bố đi tiếp khách. Nhưng có phải thế đâu! Khách gì mà lại phải tiếp vào buổi tối mà lại tiếp nhau trên bàn nhậu nữa chứ? Cứ mỗi bận thế, sáng ra mẹ lại cằn nhằn không ngủ được, vì mùi rượu nồng nặc; bố chỉ cười cười.

Mà không chỉ có bố mình đâu nhé, những ông bố khác cũng cuội cả. Bố nói thế đấy. Thật ra là không phải chính xác là bố nói thế, một cách trực tiếp ấy. Thật ra là mình để ý thấy rằng, có những lần, sau bữa tối, nằm trên võng đọc báo, bố đột nhiên phát cáu: vứt xoẹt tờ báo qua một bên rồi vớ lấy cái rờ-mốt, vừa bật tivi vừa chầm chầm mặt, trông rất là ngầu. Bố xem tivi cũng chẳng được bao lâu, rồi lại đột nhiên phát cáu lại: tắt tivi cái phụt, bố khệ nệ ôm bụng bia đứng dậy khỏi võng, rồi đi ngủ. Bố la lên thế. Cái mà bố không la, cái mà bố lầm rầm, mà mình nửa chăm chú nửa đoán mò mới nghe được, là những câu từa tựa như: Báo chí, truyền hình, láo! Lúc đó mình thật không hiểu, bố đang xem chương trình thời sự mà.

Đấy, bạn thấy đấy, mình chỉ muốn nói thật với các bạn về cái sự nói thật nghiêu (nhiêu) khê của mình thôi. Mà nói thật thì mìng cũng chả biết đâu là thật. Đến cả người lớn còn nói không thật thì biết tìm đâu cái nói thật đây? Nhưng mà nói thật, mình vẫn rất là thích nói thật. Thích lắm đấy chứ! Vì Thay vì bánh mì, thay vì công lý, hãy cho tôi sự thật! Người ta nào đó đã từng nói vậy mà.






Thứ Tư, 23 tháng 12, 2009

thầy.



Tôi không muốn làm các bạn buồn. Câu chuyện của tôi không đáng gì để có quyền lấy đi những khoảnh khắc vui vẻ, vốn đã rất hiếm hoi trong cuộc đời bạn rồi. Nhưng đây là một câu chuyện buồn, và vì vậy, nếu nó không buồn, hoặc giả bạn đọc nó mà không cảm thấy chút gì buồn, thì quả thật câu chuyện của tôi chẳng khác nào một lời nói dối. Tôi không muốn thế; tôi muốn nói thật. Ít nhất, cho một lần trong đời, tôi có can đảm nói thật, hoặc là đủ can đảm để viết thật vậy.

Câu chuyện có cái chết, có đám tang, và thầy tôi là người qua đời. Chuyện xảy ra cách đây không lâu, và tôi còn nhớ rõ ràng như mới hôm nào còn thấy thầy trên bục giảng.

Thầy dạy tôi một lớp, năm cuối cấp tiểu học. Lớp tôi là lớp bán trú duy nhất của trường, và lại là lứa đầu tiên, nên vì thế, có lẽ nhận được nhiều sự chăm chút và ưu ái của nhiều người, trong đó có thầy. Thầy là giáo viên chủ nhiệm giỏi, nhất khối, hoặc đúng hơn, nhất cả trường, theo những gì được nói trong tấm bằng khen.

Thầy nghiêm khắc, và giờ học rất sinh động: những tiết học diễn ra trơn tru và nhanh gọn, phần bài tập cũng rốt ráo mà xong. Chỉ khoảng một buổi là chương trình học được giải quyết hoàn toàn, buổi còn lại chủ yếu thầy cho làm thêm bài tập, luyện thi. Dù gì chúng tôi cũng là lớp chuyên-con cưng không chính thức của trường.

Tôi không muốn nói thầy dạy giỏi. Điều đó chẳng có nghĩa gì khi nói về người thầy, nhất là nói về người mình kính trọng, thậm chí còn gây tác dụng ngược. Nhưng quả thật là vậy. Thầy tập cho chúng tôi đức tính cẩn thận, cùng những thói quen ngay ngắn, chỉnh tề trong viết lách, bằng sự nghiêm khắc của roi vọt. Nhưng tôi biết thầy thương chúng tôi lắm. Và bài học lớn nhất thầy dạy chúng tôi là bài học về tính trung thực. Trong tất cả các lỗi, nói dối là lỗi bị phạt nặng nhất. Ngày đó, ai cũng sợ. Tôi cũng sợ. Thế mà tôi đã quên.

Tin báo thầy bệnh đến vào khoảng giữa tuần, ung thư, tôi mơ hồ rồi lửng thửng lướt qua những ngày sau đó, với những lời giục giã, đi thăm thầy. Tôi tự nhủ với mình, đợi chút cũng được, chút nữa cũng được. Rồi tôi chẳng đi.

Thầy mất. Lũ bạn cũ cũng tập hợp được dăm ba đứa đến viếng, đến để thắp nhang và nghe cùng vợ thầy đôi lời tri ân; cô bình tĩnh và dịu dàng, nói lời cảm ơn tấm lòng lứa trò đã quá cũ. Không đứa nào khóc.

Cái đám tang đầu tiên của tôi là như thế. Tôi vẫn bình thường sống tiếp cuộc đời mình. Đến trường, về nhà, đi chơi, ăn và ngủ. Nhưng có chút gì đó ngờ ngợ, tôi không hiểu là gì. Mãi cho đến một hôm, nằm vật ra mà khóc, tôi mới nhận ra: tôi sẽ không còn bao giờ gặp thầy nữa, cả trong trí nhớ vốn dĩ đang ngày càng mù mờ. Lần đầu tôi đối mặt với sự khủng khiếp của cái chết, và càng khủng khiếp hơn là tôi đã không đến thăm thầy. Không phải tôi vô tâm, mà là tôi đã tự lừa mình: tôi còn nhiều thời gian và thầy chắc cũng vậy. Tôi đã nói dối.

Điều này không có nghĩa gì cả, khi chúng ta nói về sự thật. Sự thật vẫn sẽ là sự thật, bất kể chúng ta có nói dối hay không nói thật về chúng. Nhưng, tôi muốn nói thật, ít nhất, với mình, về một chuyện đáng lẽ có thể tốt hơn nhiều. Tất nhiên ai cũng sẽ có thể nói thật sau những lần nói dối, nhưng nói được (thật) từ đầu vẫn tốt hơn nhiều.