Hiển thị các bài đăng có nhãn Pamuk. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Pamuk. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 21 tháng 1, 2014

Không ngoài tình yêu



nguyên bản giàu tính viễn vong và đầy vẻ vời - trích lời điều tra viên tổ trọng án tây cửu long ICAC; vốn chẳng ăn nhập gì đến tít bài. 


*


công cuộc cốt tử của làm nhà văn chính là viết; như là căn cứ đặc thù để phân biệt giữa làm nhà văn với làm thợ sửa ống nước, nhân viên văn phòng hay là ông luật sư, chẳng hạn. vậy, xen giữa những lần viết thì nhà văn làm gì? Tức là, hình tượng hơn, giữa những cuốn tiểu thuyết nhà văn làm gì? Với Pamuk, như một biểu tượng thành công của nghề văn, ấy là Những màu khác - một tập hợp của những phân mảnh vụn vặt suốt (hơn) ba mươi năm hành nghề tiểu thuyết.

tích cách phân mảnh không chỉ được chính tác giá nhắc đến ngay ở lời tựa mà còn được trình hiện như là vô số lối rẽ xuyên suốt hơn 400 trang của tập sách. Pamuk viết về bất cứ điều gì có thể, như chính ông thừa nhận, ngõ hầu thỏa mãn cơn đói khát và tham lam của kẻ cuồng viết bên trong mình.Với đôi mắt tò mò và lòng nhiệt thành ngây thơ của một đứa trẻ.

Cũng bởi vì vậy, hạn chế lớn nhất của tập sách này, cũng như đối với thể loại tuyển tập, là sự tản mát của đề tài. Người đọc khó mà tìm thấy một công cuộc viễn du đơn nhất dài hơi tương xứng với độ dài những trang viết này. Trái lại, khả dĩ tìm thấy những lát cắt chắt ngọt về những đứt gãy của đời sống hiện đại, về quá khứ huy hoàng, về cuộc đời nhỏ mọn này, và nhất là, về hai tình yêu lớn lao nhất đời Pamuk: văn chương và Istanbul. Ông viết cho những giấc mơ chưa kịp tỏ bày; viết – như một phương cách để lại những giấc mơ.

[Như cánh hải âu tung bay huy hoàng dưới cơn mưa lấp phất trong ánh chiều vàng vọt về trên vịnh Bosphorus. Như đứa trẻ mong ngóng được trở về. Nhà.]




Thứ Ba, 14 tháng 9, 2010

tháng 9, không ba (phẩy).



Tôi thích đọc sách.

Thực ra tôi quên mất đã rất lâu cho đến khi buộc phải tìm thấy lại chút niềm vui của việc đọc để chống lại sự nhàm chán của ngập ngụa thời gian thừa thải. Điều đó thật tuyệt!

Nghĩ về căn phòng nhỏ với những bức tường trắng; nhìn từ phía trên, xuống căn phòng nhỏ có những bức tường trắng, với cửa sổ đối diện ngập nắng, chiếc sofa và cuốn sách mở. Tôi thích nghĩ về điều đó. Không biết có phải là tôi mơ mộng; tôi thích thế: việc đọc sách mang tôi đến căn phòng màu trắng, rồi chính cuốn sách đưa tôi vượt thoát khỏi căn phòng: nhìn ra bên ngoài cửa sổ, thay màu các bức tường, và hiện lên một thế giới khác. Nhiều thế giới khác. Tôi thích điều đó. Tôi thích đọc sách.

Như cậu bé Orhan mãi mê tìm kiếm một Orhan khác đang đâu đó bên trong thành phố Istanbul sống cuộc đời hạnh phúc; hay hòa mình vào cuộc tìm kiếm của cọ màu trên toan vẽ một công cuộc đào thoát khỏi sự nhàm chán của cuộc sống chung quanh, để lại trở về với thế giới ta không ngừng trở về; như ngắm nhìn những con tàu trên vịnh Borphorous: như ngắm nhìn nỗi sợ hãi trong mình cứ lớn dần, lớn dần lên. Tôi thích điều đó.

Chúng ta dùng chung trí tưởng tượng, ít nhất trong khi nói về điều này: niềm đam mê trong những quyển sách. Cách thức một người thực hiện một cuộc phiêu lưu thoát khỏi xung quanh, thực hiện cuộc chuyển dời tâm trí ra khỏi những gì nhìn thấy trước mắt, hay nói cách khác, là chồng lên cuộn phim của hiện thực lớp màn nhung của trí tưởng tượng, tựu trung là giống nhau: bắt đầu một khi mong muốn tin vào những ý nghĩ lớn dần (thay vì những gì nhìn thấy), cuộc phiêu lưu trở thành một quá trình tự-thuyết phục theo những phương thức hết sức riêng tư, dựa trên những lựa chọn hoàn toàn tùy ý nhằm tái-tạo một hệ thống hiện thức thứ cấp về thế giới, một thế giới hiện thực sơ cấp riêng. Nói đơn giản, thông qua hồi tưởng và suy tưởng đem lại một hình tượng về sự dễ chịu hoàn toàn. Và điều này ở trên hết thảy: làm việc đó cho chúng ta dễ chịu.

Tôi dùng sách như công cụ mồi; người khác thì vẽ; người khác nữa thì có lẽ không cần gì cả. Tôi thường có những suy nghĩ nhỏ nhặt, và đa phần quá tản mác đến nỗi sau đó tôi không thể nhớ chút gì; một ánh chớp lóe lên, rồi mãi mãi không gì khác nữa, ngoài chính ánh chớp đó. Những cuốn sách, hay nói đúng hơn, là sự tồn tại của những cuốn sách cho, tôi một giải pháp neo giữ khả dĩ: chúng là nơi phát xuất, ngọn nguồn cảm hứng cho các ý tưởng; chúng là điểm mốc của các ý tưởng, của trí nhớ, và của quá trình lần hồi trí nhớ về các ý tưởng phái sinh; chúng là những hiện thực duy nhất mà không bao giờ tôi nhàm chán. Đặc biệt là những quyển sách hay; nơi tâm trí có thể được neo giữ lâu dài, hoặc là mãi mãi. (Những lời đoan chắc không đáng tin, nhưng niềm vinh danh luôn muốn được mãi mãi). Nhưng đọc sách là một công việc vất vã; mọi thú vui đều lắm cực nhọc.

Nhà văn nào đó đã từng viết, ý rằng: cuộc đời một người không thực sự đọc quá mười cuốn sách; không chỉ là đưa mắt chậm chạp lướt qua từng dòng ký hiệu ngôn từ của trang giấy mà thực sự hòa mình vào đó, sống trong đó. Tôi lại nghĩ đó là vấn đề thời điểm. Ngoài lý do về bản chất loại trừ của thẩm mỹ cũng như lý luận, một lý do tối quan trọng khác ngăn cản khả năng liên tục hóa thân vào những cuộc phiêu lưu ẩn sau lớp chữ nghĩa đó là thời gian: tôi không làm sao ngăn được tôi già đi; mọi việc sẽ rất khác.

Nhưng niềm thích thú là không hề suy suyển; tôi thích đọc sách, và tôi thích đọc những cuốn sách hay. Vì bất kể cuộc đời tươi đẹp này có ra làm sao thì tôi luôn còn một chốn trú ngụ không có là gì khác ngoài hoàn toàn dễ chịu, nơi tôi mặc tình ra vào. Vì cũng như nhà văn của những điều nhỏ nhặt có thể dìm bạn xuống tột cùng hạnh phúc, mà tôi vô cùng thích thú, đã mở đầu một tác phẩm của chính mình, hơn cả niềm vinh danh: "Tôi đã đọc một cuốn sách, và điều đó đã thay đổi cả cuộc đời tôi".

...




Cuộc đời tôi, thực sự đã thay đổi rất nhiều!















Thứ Năm, 8 tháng 7, 2010

Nhân trường hợp một người đàn ông.




Giả định một: đây là một trường hợp giả tưởng: người đàn ông mất cả vợ lẫn con trong một tai nạn xe hơi, mà chính ông cầm lái; hằng năm đến ngày mùng tám tháng 6, ngày giỗ, ông lại đập nát chiếc xe của mình; chiếc xe được sửa lại, suốt trong quãng thời gian còn lại của năm, ông một mình thơ thẩn, như mất hồn.

Giả định hai: người đàn ông đó, là tôi.


Những giả định như là các điều kiện biên của một bài toán, chúng không tham gia việc tạo thành bài toán, cũng như tạo nên nội dung của vấn đề; chúng là cơ sở của việc giải đúng bài toán, là nơi bắt đầu của các câu trả lời có nghĩa. Như một cái liếc mắt về nơi xuất phát, những giả định là chính là căn cước của một bài viết, nó giúp người đọc định hướng suy tưởng theo sự sắp đặt của người viết, trong mong muốn tạo thành, ít nhất một, câu chuyện có nghĩa. Nhưng một khi sự tồn tại văn bản của các giả định là cần thiết, nghĩa là người viết cần phải lưu tâm người đọc về chính những giả định của mình, như một lối nói vòng, thì đó chính là sự thất bại không gì bào chữa được của người viết: cái được viết nên không đủ tường minh, hoặc không đủ sức mạnh để nhấn chìm tâm trí người đọc trong chính thế giới viễn tưởng của nó; khi người đọc có cái liếc mắt về quá khứ, cũng là lúc người viết trình hiện như một kẻ non tay, hoặc ngay cả người viết cũng thấy việc đọc là khó thể hiểu, nếu bỏ qua những giả định, như những ngọn đèn bão.



Bắt đầu câu chuyện là vào buổi hôm ấy, khi lão Trương ngồi ở băng ghế phía trước khoảnh sân trẻ con khu phố tụ tập vào mỗi buổi chiều, như thường lệ, ngây người nhìn về phía mặt trời đỏ ối đang chầm chậm chuội dần. Như thường lệ. Nắng ngày tắt dần, bóng đêm phủ xuống, đám trẻ cũng chẳng còn, lão Trương vẫn đấy, thừ người như mất hồn. Chiều nào cũng như chiều nào.

Lão Trương dọn đến khu phố chúng tôi một dạo trước, ở căn phòng nhỏ phía sau dãy chung cư cũ. Chẳng biết từ đâu đến, chẳng thấy ai khác. Lão chỉ một mình.

Lão Trương làm được mọi thứ, từ sửa đường ống rò nước, đến mở cái ổ khóa trái cửa nhà, từ coi sóc mấy cái cầu chì, đến chăm nom mấy ụ máy lạnh, từ nhổ mấy cái chậu kiểng bỏ hoang chết khô lâu ngày, đến bón phân thay đất cũng chính chậu kiểng lão vừa nhổ, từ bưng bê, cày cuốc đến lau quét, dọn dẹp, từ hết ngày này đến sang ngày khác trong cái xóm nghèo lao động này; có ai kêu, lão làm. Chẳng phàn nàn gì. Mà cũng hiếm ai nghe lão nói. Lão chẳng nói gì.

Tôi cũng chẳng mấy dịp nói chuyện với lão; những khi gặp mặt, những dịp xem chừng thích hợp cho câu chuyện đi xa hơn những đối thoại cụt lủn trong phòng tắm, và những khi nhìn vào nỗi buồn xám tro cùng cái nhìn mơ màng như nuốt lấy cả bầu trời phía trước, tôi không thể nói được gì; như buổi chiều hôm ấy, tôi lại bị đôi mắt của lão nuốt chửng, trong nỗi buồn xa xăm không gì chạm tới được. Tôi chỉ có thể nhìn lão, mang đôi mắt dửng dưng lững thững trở về, khi ngày nắng đã tắt khá lâu rồi.

Mọi chuyện bắt đầu vào buổi hôm ấy, khi tôi cho xe đổ xuống cái dốc đầu tiên, trên đường về lại thành phố. Tôi cầm lái, vợ tôi ngồi bên, con tôi ở băng sau. Tôi và vợ đang cự cãi về một chuyện gì rất căng, đến tận bây giờ tôi cũng không tài nào nhớ được, đó là chuyện gì. Nhưng chúng tôi đang rất căng thẳng. Tôi đã rất nóng giận. Tôi đã quát lên phẫn nộ, không rõ là với cô ấy hay ai. (Tới bây giờ tôi vẫn không nhớ nỗi, đó là chuyện gì.) Một lần, hai lần, tới lần thứ ba thì đến khúc quanh đó, xe tải trờ tới. Hôm ấy, là ngày mùng tám tháng 6.

Ra viện, tôi bán hết mọi thứ, chuyển đi một nơi khác; chỉ giữ lại chiếc xe hơi màu xanh, lúc ấy chẳng gì khác một đống sắt vụn. Lúc ấy, con tôi gần mười tuổi.

Hằng năm cứ đến ngày mùng tám tháng 6, tôi lại cho phép mình uống rượu, rồi trút tất cả phẫn nộ lên chiếc xe màu xanh. Lần này tôi biết tôi phẫn nộ với chính mình, với chiếc xe, lúc đó, chính là tôi. Nước mắt hòa cùng mồ hôi với men cay bốc lên đầu ngùn ngụt trút xuống chiếc xe, nó lại móp mó như một đống sắt vụn. Tôi không có ý định dừng lại. Cho đến khi mở mắt ra, đã sang ngày mùng chín. Tôi lại sửa soạn cho ngày mùng tám tháng 6 sắp tới. Rồi chiều nào cũng như chiều nào.

Tôi không thích những nỗi buồn quá lớn: nó làm chúng ta trở nên không thật; nó làm tôi trở nên không tồn tại, trong mắt lão, trước mắt lão. Nhưng mặt khác, tôi lại có phần ghen tỵ, không phải là với lão, cũng không phải với nỗi buồn đăm đắm sẵn sàng nuốt chửng bất cứ ai trong mắt lão, mà vì lão đã từng chìm đắm trong một tình yêu lớn lao đến vậy: một tình yêu có thể nhấn chìm tất cả mọi gì khác, cả bản thân của lão; nỗi hoài nhớ chính là giá trả lớn lao cho tình yêu đó.

Nỗi hoài nhớ của lão Trương không phải tình yêu của lão, dù từ đó, nó thoát sinh; là liên tục ước muốn tiếp tục được đắm mình trong tình yêu đó, được ngắm nhìn, được ôm ấp, được vuốt ve, và được thuộc về; không phải thế giới đã chết đối với lão, lão cũng không từ khước thế giới này; thực ra sự tiếp tục tồn sinh của thế giới của lão Trương, cái thế giới của cuộc đời trước ngày mùng tám tháng 6, chính là nguồn cơn của ước muốn trở về của lão; cuộc đời đó chắc hẳn đã rất ấm êm và ngọt ngào, để có thể giữ cho ước muốn hằng tồn, mà giả chăng có không phải, thì sự biến của ngày mùng tám cũng sẽ làm cho ước muốn trở về trở thành một ảo tượng ngọt ngào: bị cắt bỏ tàn bạo sẽ tạo ra cuộc trở về thiêng liêng; hấp lực mãnh liệt của cuộc trở về liên tục đòi hỏi lão thực hiện cuộc trở về, trong khi sự bất khả của hiện thực neo lão lại với thân xác càng ngày càng già cỗi; lão cố gắng liên tục để chối bỏ sự thật rằng sự biến ngày mùng tám tháng 6 là có tồn tại, trong khi nỗi hoài nhớ như một quả bom hẹn giờ lầm lì điểm nhịp, đến đủ ngày đủ tháng bật đánh tách: được tháo nút, mọi sự dồn nén tuôn trào. Cơn cuồng nộ lão trút xuống chiếc xe, cũng chính là cơn cuồng nộ lão đang trút xuống bản thân; bằng cách tách dời bản thân lão đồng nhất với những khung thép lạnh căm đó, lão đổ lỗi cho bản thân đã để cho sự việc đó xảy ra, theo cái cách nó đã xảy ra, mà lão chưa bao giờ có thể chấp nhận; cũng bằng cách nện thực lực xuống những khung thép lạnh căm đó, lão mong muốn hiện thực hóa hy vọng của lão trong ảo tưởng chống lại tính bất biến của thời gian: liên tục từng cú vụt xuống là từng lần mạt sát chính mình; là tiếng thét vút lên của ước muốn chối bỏ thực tại; là hy vọng quay ngược trở lại thời điểm đó: ước muốn đảo chiều vòng quay hay khát khao mãnh liệt khả dĩ thay đổi quá khứ; hy vọng của phép màu. Lão chờ cả một năm, để có thể thực hiện nghi lễ kháng cự này, vào thời khắc tiến tới gần nhất thời điểm của sự biến, nhưng sau mỗi một cố gắng, chỉ có nỗi trống rỗng đổ ập xuống; tiếng chạm kim loại chát chúa vang lên; lão càng cố gắng thì càng lún sâu vào nỗi trống rỗng của tuyệt vọng; ước mong phép màu không tàn lụi, nhưng hy vọng cứ trôi tuột theo sức lực vụt xuống chát chúa.

Rồi khi ngồi thịch xuống bên chiếc xe màu xanh, bấy giờ chẳng khác gì một đống sắt vụn, lão cũng chẳng khác mấy, với những hơi thở nặng nề cơn mỏi mệt, cùng nỗi trống rỗng choáng đầy hai hốc mắt: nỗi hoài nhớ của một người đàn ông; nó nuốt chửng lấy tất cả vào trong nỗi buồn mang ánh mắt dửng dưng, của lão.

Ước muốn nghĩa là không có thực. Những cố gắng của lão Trương nhằm làm sống lại một thế giới, thực ra chỉ khẳng định một điều: mong muốn được chết cùng với cái ngày mùng tám tháng 6, vào ngày mùng tám tháng 6. Lão không thể. Tôi biết điều đó. Tôi cũng muốn được thuộc về một tình yêu lớn lao đến vậy, dù rằng cái bóng mây mờ của nỗi hoài nhớ phía sau cũng lớn lao không kém.

Tôi không thật rõ mình muốn gì. Bằng cách cố gắng có được cái nhìn thông suốt nhân trường hợp một người đàn ông, tôi được dịp đắm mình trong mênh mông nỗi buồn của lão; tôi lại được dịp tin tưởng vào một điều khả dĩ lớn lao hơn cả con người, hơn cả cuộc đời này, và hơn cả là phù phiếm: tình yêu một con người có thể tận hiến, hay theo một cách nói khác, duy mỹ hơn và ủy mị hơn, tất cả (là) vì tình yêu; và cùng cơ hội sống lại niềm tin, nó trao cho tôi hy vọng, hy vọng về hạnh phúc. Nhưng cũng bằng cách ấy, tôi lại một lần nữa phải đối mặt với bất hạnh lớn nhất cuộc đời mình, lại một lần sợ hãi: tôi sợ hãi, vì tôi đang còn sống, trong nỗi bất hạnh chẳng có gì lớn lao hơn cuộc đời mình. Chẳng có gì. Tôi chỉ có ước muốn.



Ước muốn nghĩa là không có thực.















Thứ Tư, 16 tháng 6, 2010

Istanbul



Chôn mình trong nỗi điêu tàn xám tro của thành phố im lìm.

Tôi không biết cái gì là tốt hơn, giữa chừng quay lại vẫn thấy một cảnh tượng y hệt ban đầu, mừng vội với niềm hạnh phúc rỡ ràng hội ngộ người bạn cố tri, không chút đổi khác, hệt ban đầu, ngày đầu của cuộc du hành xa rời chốn cũ; hay dấu tích chất chồng, mọi khung hình xa lạ biến đổi cả cuộc trở về mong ước thành một chuyến phiêu lưu viễn tượng, trên nền của một cái gì vốn lẽ phải quá quen thuộc: những trông thấy trước mặt mãi dập dềnh mãi trong mắt, thành phố của tôi đâu? Lại tiếp tục những cuộc du hành không có đích đến, và cũng không bao giờ đến đích, tận hưởng tự do thênh thang trong bao bọc nỗi cô đơn, của lữ khách, như một kẻ du lịch, ngang qua một chốn lạ, trong lòng thành phố, của mình?

Tôi muốn làm con chó; con chó là con chó: chờ được xoa đầu là lại sủa, gâu gâu; dù đến bất cứ đâu cũng đều có thể trở về, mà hít hà niềm hạnh phúc vô vàn quen thuộc luôn ngạt ngào ở cái chốn bất kỳ con chó nào cũng có một, gọi là nhà. Những con chó không bao giờ đi lạc. Cả những con mèo. Chúng chỉ lẳng lặng ra đi, rồi chết không về lại.

Hạnh phúc của người mẹ là nhìn thấy đứa con trở về. Hạnh phúc của tuổi trẻ là những cuộc ra đi. Hạnh phúc của con người là miếng mồi ngon béo bở, của ảo tượng về sự tất định, về một công cuộc ấm êm mà ít nghi ngại, về một phút giây nào con người trở nên bất tử trong bản thể chính mình, nơi không thể có chỗ cho sự nghi ngờ, không cả có chỗ cho sợ hãi, hoặc giả bất cứ điều gì khác, ngoài khoảng lặng của niềm thiêng liêng vút cao; vì hạnh phúc mà cúi đầu.

Tôi chỉ muốn được ra đi, rồi chết nơi chân trời lạ, không gì mang theo hay bỏ lại: Chết, rồi hết.

Như cuộc dấn thân ráo riết vào miền đất viễn tưởng của tự do: tự do tuyệt đối - cô đơn tuyệt đối.



Còn hạnh phúc: tôi cần gì thêm nữa với nỗi điêu tàn xám tro của một thành phố im lìm.