Hiển thị các bài đăng có nhãn kundera. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn kundera. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 8 tháng 7, 2010

Nhân trường hợp một người đàn ông.




Giả định một: đây là một trường hợp giả tưởng: người đàn ông mất cả vợ lẫn con trong một tai nạn xe hơi, mà chính ông cầm lái; hằng năm đến ngày mùng tám tháng 6, ngày giỗ, ông lại đập nát chiếc xe của mình; chiếc xe được sửa lại, suốt trong quãng thời gian còn lại của năm, ông một mình thơ thẩn, như mất hồn.

Giả định hai: người đàn ông đó, là tôi.


Những giả định như là các điều kiện biên của một bài toán, chúng không tham gia việc tạo thành bài toán, cũng như tạo nên nội dung của vấn đề; chúng là cơ sở của việc giải đúng bài toán, là nơi bắt đầu của các câu trả lời có nghĩa. Như một cái liếc mắt về nơi xuất phát, những giả định là chính là căn cước của một bài viết, nó giúp người đọc định hướng suy tưởng theo sự sắp đặt của người viết, trong mong muốn tạo thành, ít nhất một, câu chuyện có nghĩa. Nhưng một khi sự tồn tại văn bản của các giả định là cần thiết, nghĩa là người viết cần phải lưu tâm người đọc về chính những giả định của mình, như một lối nói vòng, thì đó chính là sự thất bại không gì bào chữa được của người viết: cái được viết nên không đủ tường minh, hoặc không đủ sức mạnh để nhấn chìm tâm trí người đọc trong chính thế giới viễn tưởng của nó; khi người đọc có cái liếc mắt về quá khứ, cũng là lúc người viết trình hiện như một kẻ non tay, hoặc ngay cả người viết cũng thấy việc đọc là khó thể hiểu, nếu bỏ qua những giả định, như những ngọn đèn bão.



Bắt đầu câu chuyện là vào buổi hôm ấy, khi lão Trương ngồi ở băng ghế phía trước khoảnh sân trẻ con khu phố tụ tập vào mỗi buổi chiều, như thường lệ, ngây người nhìn về phía mặt trời đỏ ối đang chầm chậm chuội dần. Như thường lệ. Nắng ngày tắt dần, bóng đêm phủ xuống, đám trẻ cũng chẳng còn, lão Trương vẫn đấy, thừ người như mất hồn. Chiều nào cũng như chiều nào.

Lão Trương dọn đến khu phố chúng tôi một dạo trước, ở căn phòng nhỏ phía sau dãy chung cư cũ. Chẳng biết từ đâu đến, chẳng thấy ai khác. Lão chỉ một mình.

Lão Trương làm được mọi thứ, từ sửa đường ống rò nước, đến mở cái ổ khóa trái cửa nhà, từ coi sóc mấy cái cầu chì, đến chăm nom mấy ụ máy lạnh, từ nhổ mấy cái chậu kiểng bỏ hoang chết khô lâu ngày, đến bón phân thay đất cũng chính chậu kiểng lão vừa nhổ, từ bưng bê, cày cuốc đến lau quét, dọn dẹp, từ hết ngày này đến sang ngày khác trong cái xóm nghèo lao động này; có ai kêu, lão làm. Chẳng phàn nàn gì. Mà cũng hiếm ai nghe lão nói. Lão chẳng nói gì.

Tôi cũng chẳng mấy dịp nói chuyện với lão; những khi gặp mặt, những dịp xem chừng thích hợp cho câu chuyện đi xa hơn những đối thoại cụt lủn trong phòng tắm, và những khi nhìn vào nỗi buồn xám tro cùng cái nhìn mơ màng như nuốt lấy cả bầu trời phía trước, tôi không thể nói được gì; như buổi chiều hôm ấy, tôi lại bị đôi mắt của lão nuốt chửng, trong nỗi buồn xa xăm không gì chạm tới được. Tôi chỉ có thể nhìn lão, mang đôi mắt dửng dưng lững thững trở về, khi ngày nắng đã tắt khá lâu rồi.

Mọi chuyện bắt đầu vào buổi hôm ấy, khi tôi cho xe đổ xuống cái dốc đầu tiên, trên đường về lại thành phố. Tôi cầm lái, vợ tôi ngồi bên, con tôi ở băng sau. Tôi và vợ đang cự cãi về một chuyện gì rất căng, đến tận bây giờ tôi cũng không tài nào nhớ được, đó là chuyện gì. Nhưng chúng tôi đang rất căng thẳng. Tôi đã rất nóng giận. Tôi đã quát lên phẫn nộ, không rõ là với cô ấy hay ai. (Tới bây giờ tôi vẫn không nhớ nỗi, đó là chuyện gì.) Một lần, hai lần, tới lần thứ ba thì đến khúc quanh đó, xe tải trờ tới. Hôm ấy, là ngày mùng tám tháng 6.

Ra viện, tôi bán hết mọi thứ, chuyển đi một nơi khác; chỉ giữ lại chiếc xe hơi màu xanh, lúc ấy chẳng gì khác một đống sắt vụn. Lúc ấy, con tôi gần mười tuổi.

Hằng năm cứ đến ngày mùng tám tháng 6, tôi lại cho phép mình uống rượu, rồi trút tất cả phẫn nộ lên chiếc xe màu xanh. Lần này tôi biết tôi phẫn nộ với chính mình, với chiếc xe, lúc đó, chính là tôi. Nước mắt hòa cùng mồ hôi với men cay bốc lên đầu ngùn ngụt trút xuống chiếc xe, nó lại móp mó như một đống sắt vụn. Tôi không có ý định dừng lại. Cho đến khi mở mắt ra, đã sang ngày mùng chín. Tôi lại sửa soạn cho ngày mùng tám tháng 6 sắp tới. Rồi chiều nào cũng như chiều nào.

Tôi không thích những nỗi buồn quá lớn: nó làm chúng ta trở nên không thật; nó làm tôi trở nên không tồn tại, trong mắt lão, trước mắt lão. Nhưng mặt khác, tôi lại có phần ghen tỵ, không phải là với lão, cũng không phải với nỗi buồn đăm đắm sẵn sàng nuốt chửng bất cứ ai trong mắt lão, mà vì lão đã từng chìm đắm trong một tình yêu lớn lao đến vậy: một tình yêu có thể nhấn chìm tất cả mọi gì khác, cả bản thân của lão; nỗi hoài nhớ chính là giá trả lớn lao cho tình yêu đó.

Nỗi hoài nhớ của lão Trương không phải tình yêu của lão, dù từ đó, nó thoát sinh; là liên tục ước muốn tiếp tục được đắm mình trong tình yêu đó, được ngắm nhìn, được ôm ấp, được vuốt ve, và được thuộc về; không phải thế giới đã chết đối với lão, lão cũng không từ khước thế giới này; thực ra sự tiếp tục tồn sinh của thế giới của lão Trương, cái thế giới của cuộc đời trước ngày mùng tám tháng 6, chính là nguồn cơn của ước muốn trở về của lão; cuộc đời đó chắc hẳn đã rất ấm êm và ngọt ngào, để có thể giữ cho ước muốn hằng tồn, mà giả chăng có không phải, thì sự biến của ngày mùng tám cũng sẽ làm cho ước muốn trở về trở thành một ảo tượng ngọt ngào: bị cắt bỏ tàn bạo sẽ tạo ra cuộc trở về thiêng liêng; hấp lực mãnh liệt của cuộc trở về liên tục đòi hỏi lão thực hiện cuộc trở về, trong khi sự bất khả của hiện thực neo lão lại với thân xác càng ngày càng già cỗi; lão cố gắng liên tục để chối bỏ sự thật rằng sự biến ngày mùng tám tháng 6 là có tồn tại, trong khi nỗi hoài nhớ như một quả bom hẹn giờ lầm lì điểm nhịp, đến đủ ngày đủ tháng bật đánh tách: được tháo nút, mọi sự dồn nén tuôn trào. Cơn cuồng nộ lão trút xuống chiếc xe, cũng chính là cơn cuồng nộ lão đang trút xuống bản thân; bằng cách tách dời bản thân lão đồng nhất với những khung thép lạnh căm đó, lão đổ lỗi cho bản thân đã để cho sự việc đó xảy ra, theo cái cách nó đã xảy ra, mà lão chưa bao giờ có thể chấp nhận; cũng bằng cách nện thực lực xuống những khung thép lạnh căm đó, lão mong muốn hiện thực hóa hy vọng của lão trong ảo tưởng chống lại tính bất biến của thời gian: liên tục từng cú vụt xuống là từng lần mạt sát chính mình; là tiếng thét vút lên của ước muốn chối bỏ thực tại; là hy vọng quay ngược trở lại thời điểm đó: ước muốn đảo chiều vòng quay hay khát khao mãnh liệt khả dĩ thay đổi quá khứ; hy vọng của phép màu. Lão chờ cả một năm, để có thể thực hiện nghi lễ kháng cự này, vào thời khắc tiến tới gần nhất thời điểm của sự biến, nhưng sau mỗi một cố gắng, chỉ có nỗi trống rỗng đổ ập xuống; tiếng chạm kim loại chát chúa vang lên; lão càng cố gắng thì càng lún sâu vào nỗi trống rỗng của tuyệt vọng; ước mong phép màu không tàn lụi, nhưng hy vọng cứ trôi tuột theo sức lực vụt xuống chát chúa.

Rồi khi ngồi thịch xuống bên chiếc xe màu xanh, bấy giờ chẳng khác gì một đống sắt vụn, lão cũng chẳng khác mấy, với những hơi thở nặng nề cơn mỏi mệt, cùng nỗi trống rỗng choáng đầy hai hốc mắt: nỗi hoài nhớ của một người đàn ông; nó nuốt chửng lấy tất cả vào trong nỗi buồn mang ánh mắt dửng dưng, của lão.

Ước muốn nghĩa là không có thực. Những cố gắng của lão Trương nhằm làm sống lại một thế giới, thực ra chỉ khẳng định một điều: mong muốn được chết cùng với cái ngày mùng tám tháng 6, vào ngày mùng tám tháng 6. Lão không thể. Tôi biết điều đó. Tôi cũng muốn được thuộc về một tình yêu lớn lao đến vậy, dù rằng cái bóng mây mờ của nỗi hoài nhớ phía sau cũng lớn lao không kém.

Tôi không thật rõ mình muốn gì. Bằng cách cố gắng có được cái nhìn thông suốt nhân trường hợp một người đàn ông, tôi được dịp đắm mình trong mênh mông nỗi buồn của lão; tôi lại được dịp tin tưởng vào một điều khả dĩ lớn lao hơn cả con người, hơn cả cuộc đời này, và hơn cả là phù phiếm: tình yêu một con người có thể tận hiến, hay theo một cách nói khác, duy mỹ hơn và ủy mị hơn, tất cả (là) vì tình yêu; và cùng cơ hội sống lại niềm tin, nó trao cho tôi hy vọng, hy vọng về hạnh phúc. Nhưng cũng bằng cách ấy, tôi lại một lần nữa phải đối mặt với bất hạnh lớn nhất cuộc đời mình, lại một lần sợ hãi: tôi sợ hãi, vì tôi đang còn sống, trong nỗi bất hạnh chẳng có gì lớn lao hơn cuộc đời mình. Chẳng có gì. Tôi chỉ có ước muốn.



Ước muốn nghĩa là không có thực.















Thứ Tư, 16 tháng 6, 2010

Istanbul



Chôn mình trong nỗi điêu tàn xám tro của thành phố im lìm.

Tôi không biết cái gì là tốt hơn, giữa chừng quay lại vẫn thấy một cảnh tượng y hệt ban đầu, mừng vội với niềm hạnh phúc rỡ ràng hội ngộ người bạn cố tri, không chút đổi khác, hệt ban đầu, ngày đầu của cuộc du hành xa rời chốn cũ; hay dấu tích chất chồng, mọi khung hình xa lạ biến đổi cả cuộc trở về mong ước thành một chuyến phiêu lưu viễn tượng, trên nền của một cái gì vốn lẽ phải quá quen thuộc: những trông thấy trước mặt mãi dập dềnh mãi trong mắt, thành phố của tôi đâu? Lại tiếp tục những cuộc du hành không có đích đến, và cũng không bao giờ đến đích, tận hưởng tự do thênh thang trong bao bọc nỗi cô đơn, của lữ khách, như một kẻ du lịch, ngang qua một chốn lạ, trong lòng thành phố, của mình?

Tôi muốn làm con chó; con chó là con chó: chờ được xoa đầu là lại sủa, gâu gâu; dù đến bất cứ đâu cũng đều có thể trở về, mà hít hà niềm hạnh phúc vô vàn quen thuộc luôn ngạt ngào ở cái chốn bất kỳ con chó nào cũng có một, gọi là nhà. Những con chó không bao giờ đi lạc. Cả những con mèo. Chúng chỉ lẳng lặng ra đi, rồi chết không về lại.

Hạnh phúc của người mẹ là nhìn thấy đứa con trở về. Hạnh phúc của tuổi trẻ là những cuộc ra đi. Hạnh phúc của con người là miếng mồi ngon béo bở, của ảo tượng về sự tất định, về một công cuộc ấm êm mà ít nghi ngại, về một phút giây nào con người trở nên bất tử trong bản thể chính mình, nơi không thể có chỗ cho sự nghi ngờ, không cả có chỗ cho sợ hãi, hoặc giả bất cứ điều gì khác, ngoài khoảng lặng của niềm thiêng liêng vút cao; vì hạnh phúc mà cúi đầu.

Tôi chỉ muốn được ra đi, rồi chết nơi chân trời lạ, không gì mang theo hay bỏ lại: Chết, rồi hết.

Như cuộc dấn thân ráo riết vào miền đất viễn tưởng của tự do: tự do tuyệt đối - cô đơn tuyệt đối.



Còn hạnh phúc: tôi cần gì thêm nữa với nỗi điêu tàn xám tro của một thành phố im lìm.














Chủ Nhật, 6 tháng 6, 2010

Những kẻ ăn xương.

*bài viết này là đạo văn, một phần từ bài này. bản nháp, phần 1.



Có hai cách để được phụ nữ yêu: là biết làm ra tiền hoặc biết cách xài tiền, thật nhiều tiền. Hiển nhiên bạn không cần phải có khả năng kiếm được bạc triệu chỉ trong tích-tắc một ván bài hoặc sinh ra làm cậu chiêu trong một gia đình với gia sản kết sù thì mới có người yêu, nhưng để giữ tình yêu của người phụ nữ, ở lại, như lúc ban đầu, thì chỉ có hai cách thế. Còn không thì tình yêu vẫn cứ ở lại, cùng lời than thở và tiếng thở dài, dài, dài, dài, thật dài. Hoặc là bạn có thể chọn để trở thành gã trung niên, tóc với râu lẫn lộn, áo không che hết bụng phì, đang cố vùi sâu vào lớp chăn êm, như là cố níu lại giấc ngủ đang vội vã tan theo từng nhịp giật nảy người chộp lấy cùng tiếng đập cửa của mẹ. Tất nhiên cũng chẳng có ma nào bồ kết, thậm chí là để ý cũng không.

Đây chắc chắn sẽ là một khởi đầu tốt cho kịch bản dòng phim bom tấn mùa hè. Hẳn thế! Gã trung niên độc thân, phát phì, sống chung với mẹ, không việc làm gì mà thức khuya hơn cú để rồi đến sáng lại ủ ê trong đống chăn màn và mặt trời thì đang ngay bên cửa gõ. Một cái gì na ná Nhật ký Tiểu thư, kết hợp với Nhân viên của năm. Một phim bom tấn. Chắc như bắp. Nhưng đến thế thôi, chỉ là một chuyến phiêu lưu ngắn ngủi tạt ngang qua địa hạt của những nhà yêu nước chân chính, - những người luôn đi đầu trong tuyên truyền kêu gào người ta dùng hàng nhà. Tôi lại nói nhảm rồi, vì tôi đang thực thảnh thơi, với tách trà ấm nghi ngút, cùng tiếng nhạc dìu dịu, một chút mùi thơm tinh tươm của hàng quán buổi sớm chưa mấy lượt. Chính là tôi đang nằm như ngồi thư thả trên chiếc sofa trải dài đến êm ả; quán quen sớm nay cũng vắng người.

Tôi nhìn theo tia nắng xiên qua tấm màn màu đỏ, vạch một đường xéo về tận đầu kia căn phòng, sáng choang. Căn phòng buổi sớm còn giấu mình trong âm u của ngày đang cục cựa, nhờ sự siêng năng của tia nắng nhanh nhẩu, càng tối căm căm. Trong vùng nhờ nhờ của ngày chưa vỡ hẳn, tôi lại thấy mình, ở phía bên kia, từ đằng sau chiếc màn hình thắp sáng, đang cặm cụi với những lọc cọc. Hai năm trước, tôi đã có lần ngồi đây cùng hắn, chẳng nhớ nói gì, mà có khi chẳng nói. Giờ thì hắn đang hăm hở trở về, sau một năm đạp xe, ăn mì gói để dành tiền uống bia buổi cuối tuần hay sau giờ seminar, cùng với nỗi nhớ mênh mông mẹ hắn giữ ở nhà, chiều nay.

Trong khi đó tôi còn đang mãi mê với mơ màng, dưới lớp chăn mềm êm ấm. Còn cuộc hẹn với mẹ hắn sáng nay nữa, nếu tôi không dứt ngay dậy thì cũng xong luôn. Mà có không muốn cũng không được. Sau một hồi gõ cửa nhẹ nhàng, mẹ tôi đã lớn tiếng gọi. Nghĩa là, có không muốn cũng không được: lại là bữa sáng với nguồn năng lượng bất tận, lại là bữa ăn sớm sẽ cung cấp sự tập trung và minh mẩn trong suốt ngày dài, lại là đứa con bé bỏng của mẹ không sớm thì muộn cũng sẽ ốm nhom thôi, nếu mà con không ăn, những món này, ăn liền giờ. Dù với lượng mỡ này, có thể thắng dầu cho cả thành phố dùng trong cả tháng trời; bà thì vẫn cứ sợ tôi ốm. Ôi, các bà mẹ!

Các bạn không nhầm đâu. Tôi vẫn ở đây, trong căn phòng u u sáng, trên chiếc sofa êm như bông, ấm trà vẫn ấm khói mơ màng, và cô bé phục vụ đang lui cui ngay bên cạnh, trong bộ đồng phục carô kẻ sọc ngang nâu đỏ cánh gián đậm lợt xen kẽ, trước một đụm hoa cỏ các loại phía bên phải và bình bông các thứ bên phía trái; quán sớm ngổn ngang nhiều việc lý thú. Con bé quỳ hẳng xuống nền gạch hoa, bỏ cái nhìn tôi lại phía sau, tay thoăn thoắt chuyền từ phải sang trái rồi ngược lại. Giữa chừng tiếng lưỡi kéo chạm vào nhau lách-cách, khi những chiếc bình được xê ngang dịch lại, nâng lên, hạ xuống làm vang lên tiếng thủy tinh va vào nền gạch, tôi ngắm vội nửa gương mặt nghiêng trong cái nhìn mê miết công việc. Cô bé lúc này đã ngồi bệch hẳn xuống. Làn vải jupe đang trong tình trạng căng cứng ôm lấy bởi sức nặng của người mang, nay thong thả xô lệch về nhăn nhúm, phủ lấy vẻ nhàn nhả lên hai bắp chân gập. Con bé mang giày vải, màu xanh. Tôi mãi nhìn.

Ngắm nhìn những gương mặt đang ngập chìm trong việc luôn là một điều thích thú. Giống như tự giải thoát mình khỏi sức nặng của việc thở, để rồi trao cho bản thân cái quyền lực của kẻ giám sát vĩ đại: ta nơi đây, đang chứng kiến một sự dần đi tới hoàn thành. Dù phần lớn trường hợp, tôi không rõ tôi đang chờ đợi cái gì. Tôi chỉ mãi nhìn, những chuyển động thành thục, như những ngón tay thon nhảy nhón trên phím dương cầm. Không có cả chờ đợi, tôi không hề thấy biểu hiện chờ đợi trên gương mặt họ. Dường như họ không còn tồn tại, trong giây phút ấy, họ không còn tồn tại cái bản thân mình nữa. Công việc này đang trên đường tiến tới hoàn thành, cái kết cục duy nhất của nó. Mà bản thân họ thì không còn tồn tại nữa. Bất giác, tôi nhìn ngang: "Vậy thì họ cần gì?".

Phụ nữ cần gì à? Mẹ tôi đương nhiên lúc này chỉ cần được tiếp tục yêu con. Mà không chỉ mẹ tôi, tất cả các bà mẹ có con trai trên quả đất này cũng vậy. Vào cái tuổi người ta không thể nào trẻ được chỉ bằng cách nghĩ rằng mình đang còn trẻ, khi sự hiện diện của đứa con lúc nào cũng bên cạnh như một gợi nhắc thô bạo về quãng thời gian tươi trẻ đã vĩnh viễn mất của mình trong nó. Bà muốn tiếp tục yêu đứa con mình, như yêu lấy một giấc mơ không còn mới, được tiếp tục được trông thấy nó mỗi sáng, được cằn nhằn, được nấu ăn, được phục dịch như một kẻ tôi tớ lâu năm đã quen tận tụy, như người hầu già nhàn việc, bỗng nhiên nhận được thông báo đảm trách phần việc bộn bề như cũ. Mẹ hắn cũng hẹn tôi, vì thế, cuộc hẹn ở chợ hầu chuẩn bị cho buổi họp mặt trong định trước vào chiều nay, khi hắn từ xa trở về, một cuộc đoàn tụ vội vã và ngắn ngủi cho đằng đẳng nỗi nhớ phủ lên sắp tới. Rồi lại tới. Mà tôi không tài nào dứt ra khỏi cơn êm ấm này. Thực khó mà rời khỏi chăn khi tối hôm trước đã chìm sâu vào một cơn say túy lúy điên cuồng, giữa những xập xình như búa vụt đập vào đầu vào ngực, từng hồi, từng hồi, từng hồi. Tiếng nhạc vút lên, và tôi lại bị hút vào cái giếng sâu hẳm đó. Lần nào cũng vậy. Không biết bao lâu đã trôi qua. Trước khi tôi trở lại, cô bé phục vụ đã xong hẳn, những chiếc bình với hoa khắp trên các mặt bàn. Nhìn quanh, căn phòng vẫn sáng lên những mảng tối sáng chưa đủ xua đi, đóa cúc vàng như mỉm cười trước mặt. Loa đang phát một bài nhạc rất khác, rất quen.

Tiếng gọi của mẹ tôi vang lên từ dưới nhà, chắc hẳn bên bàn ăn. Tôi phải xuống ngay thôi với bà ăn bữa sáng, để còn uống thuốc, rồi tới bệnh viện. Sau đó tôi lại có thể tiếp tục cuốn mình với chăn mềm. Không phải bà đi làm.















Thứ Năm, 10 tháng 12, 2009

Về các bà mẹ.



Tới một lúc nào đó, các bà mẹ trở nên nói nhiều kinh khủng. Chuyện không phải là thái quá; vốn thường các bà mẹ là đã nói nhiều. Mặc định như thể mặt trời mọc ở hướng đông, và một thời, trái đất là hình vuông, tận các biên của đường chân trời: các bà mẹ là nói nhiều; vốn đã nhiều nay lại càng nhiều. Mà tệ hơn, là khi nói về những đứa con. Tệ hơn nữa, là khi chính đứa con đang ngồi nghe, mà nó thì chẳng tỏ vẻ quan tâm gì. Bi kịch nhất là nó cứ ngồi nghe trong khi chẳng tỏ vẻ gì là đang nghe nhưng vẫn cứ tiếp tục ngồi nghe mà không tỏ vẻ đang nghe gì; tràng giang đại hải vô thiên lủng liên miên man tùng phèo chuyện cứ thế tuôn.

Mà tình cảnh hôm ấy cũng thật éo le. Tôi thấy bà, khi bà đang lơ ngơ đi dọc hành lang sạch trắng của cái bệnh viện sạch bong này. Không phải tôi quá rảnh rỗi, hay là tôi chợt thú tính đâm nhiều chuyện lọ xọ chuyện kia; bà đi ngang phòng tôi, nói đúng hơn là chỗ tôi ngồi, lần này là tới lần thứ bao nhiêu rồi tôi cũng chẳng buồn đếm. Ngẩng đầu lên là tôi lại thấy bà đang trước cửa, dáo dác. Bà đi tìm toilet. Phải chi tôi đã không biết.

Bà đi tập vật lý. Sáng thằng nhỏ chở đi sớm, tập xong, bà tự bắt buýt về. Bác sĩ chỉ định mổ, bà cương quyết cãi; bà tự phác đồ cho mình: mát-xa, bấm huyệt, châm cứu kết hợp với vật lý trị liệu, và đương nhiên, cộng với cả một mớ lằng nhằng thuốc với thuốc. Ông bác sĩ quen, chồng của bà bạn, bảo: cứ kiên trì, chừng nào không đỡ rồi thì mới mổ. Con bà, thằng lớn, cũng khuyến khích mẹ đi tập, mổ hay không thì người cũng phải khỏe trước đã. Thế là bà cứ đi; và thế là tôi cứ nghe. Bà sợ mổ.

Không khó khăn gì để biết được những chuyện vừa trên, và còn nhiều hơn nữa; người già mau chuyện. Tôi ngồi trên ghế, hơi chồm người, khuỷa tay co, hai bàn tay lồng vào nhau phía trước miệng, và nhìn bà. Con người trải qua bao nhiêu sóng gió của cuộc đời để rồi có được những buổi gặp gỡ, những cuộc giải bày như thế này, những lần được nói, trong bệnh viện, với một người xa lạ, như chưa bao giờ? Những tảo tần và bươn chải, rốt cuộc, mang đến cho người ta cái gì khác, nếu như không kể đến một chút của cải và và một lối sống nhàn hạ hơn, thảnh thơi hơn, ít ra là về mặt vật chất: thời gian và tiền bạc dư dã cùng đồng hành với tuổi già. Ít ra, trông bà cũng không phải người vừa chạy cơm vừa chữa bệnh. Âu cũng là điều an ủi. Mà tôi cũng chỉ đoán vậy.

Tôi nói không nhiều; sân khấu chủ yếu là của bà; người nghệ sĩ già đang trong cao trào độc thoại về cuộc đời; những chiêm nghiệm theo năm tháng cứ tuôn ra, đa phần không phải là cho tôi. Chính yếu là cảm giác được nói, là dành cho những quãng thời gian đã nắm giữ chúng lại. Bà nói về con trai, bà nói về tự hào. "Của để dành của mẹ", quay qua quay lại thể nào các bà mẹ cũng nói thế; họ chán phèo theo cùng một cách.

Đương nhiên tự hào là con trai; con gái thường thích (hay có thể) tỉ tê, tự hào đó không cần phải đem khoe, phần nhiều, có gì muốn nói thì những câu chuyện nhỏ to đã lấy mất rồi. Con trai thường vô tâm, và vì thế các bà mẹ lại càng nói nhiều. Chắc là thế. Và chán phèo cũng từ đó mà ra.

Con người vốn giống nhau; các bà mẹ càng giống nhau; và các cậu con trai của mẹ lại càng giống nhau nhiều chỗ. Tôi cũng là con trai, và tôi cũng còn mẹ. Tôi ngắm bà, trong khi bà đang ngụp lặn trong ký ức. Bà có vẻ ngoài không già như những con chữ tôi miêu tả, ngược lại, bà tỏ ra trẻ trung và sinh động. Nhưng bà đúng là một bà mẹ với mái tóc điểm bạc, với cái nhìn nhăn nheo và xơ xác, vì bệnh, vì tuổi; nhưng gương mặt sẽ lại sáng rực trong hai chữ con trai. Mà không nhất thiết phải nhìn mới thấy bà rực sáng. Mẹ tôi cũng vậy. Tôi đã thấy, không biết đứa con thì sao.

Đột nhiên, tôi nhớ đến Nhiệt đới buồn: những trí tuệ được xưng tụng vĩ đại hoặc là có giá rẻ bèo, hoặc là biếu không, hoặc là lâm vào tình cảnh không có đầu ra. Nghĩ cũng buồn cười, mà cười méo xẹo. Tôi cũng không định làm chuyện này buồn ra thế này; tôi muốn nhìn thấy nó khác đi. Như cách bữa đó bà cuốn tôi vào câu chuyện của mình; buổi sáng của tôi trở thành một dòng sông, trong câu chuyện bà.







* Khuyến mãi:

- Tôi chia Cuộc đời con người thành ba quãng nhỏ; tên gọi có thể khác nhau, mốc chia có thể khác nhau, thậm chí có những người không bao giờ thấy, không bao giờ hiểu ra cái lẽ giản đơn rằng may mắn lớn nhất cuộc đời mình là may mắn được sống. Tôi không có ý chê bai gì; tôi chỉ muốn nhớ, tôi chỉ muốn viết. Vì tôi đã thấy, và may mắn cho mình, là tôi được thấy. Cái lớn lao nhất của cuộc đời không phải là vũ trụ: đó là vòng tay của người mẹ; của người con; và của người yêu. Tùy vào cơ may mà một người sẽ thực trải, và chỉ có thực trải mới làm con người thực sự là người. Tôi chỉ mới thấy, mà thấy là chỉ biết, mà biết là bước đầu tiên đi đến tồn tại. Mong vậy.

- Hạnh phúc cho những ông bố nhận ra sự lớn lao của vòng tay con nhỏ, và may mắn cho những đứa con có được khát khao làm bố, như bố của mình, một ngày không quá xa, ngay từ những ngày đang còn nhỏ.

- "Thật là đàn bà!", không biết người ta còn dùng ngữ này để nói về những người đàn bà như thế nào nữa, tôi thật sự không đoán hết được. Nhưng nếu dùng để nói về cái hạnh phúc tủn mủn và thường vặt của các bà mẹ, thì thú thật, ngay từ lúc còn rất nhỏ, tôi đã có những giấc mơ bình thường như thế. Tôi con trai, và tôi mơ giấc mơ "đàn bà"; phải chăng tôi "đàn bà"?

- Nhân tiện, tôi không phải bác sĩ.










Thứ Bảy, 7 tháng 11, 2009

Còn có bao giờ em nhớ ta?

1. Tuổi 17 có gì?

Đương nhiên là trẻ, và, đương nhiên là đẹp. Người ta vẫn đẹp ngay cả khi người ta không biết mình đẹp, hay người ta không công nhận điều đó. Và, đương nhiên, bất chấp cả sự tán đồng hay phản bác của cả những người ta khác nữa. Tuổi 17 là đẹp, hiển nhiên như thể người ta chỉ có thể hít thở bằng oxy vậy thôi.

Tuổi 17 (là) vô địch; chỉ việc ý thức được sự tồn tại của bản thân, rằng mình đang tồn tại, cũng đủ để trở thành nguồn cơn cho mọi cuộc phiêu lưu vĩ đại, cho dù đó là điều viễn vông nhất một người có thể nghe, hoặc dẫu chỉ là nghĩ tới thôi: người ta hoàn toàn có thể làm được tất.

Ta thích bốn mùa xoay chuyển trong ta
Để thấy mình lớn lao như vũ trụ.
(1)

Tuổi 17 là niềm hứng khởi vô cùng tận. Mặc tình với những say sưa, người ta không biết, và cũng không cần biết đến bất cứ thứ gì xấu xí. Mọi người đều đẹp, vạn vật đều đẹp, chừng nào người đó, vật đó còn khoác lên mình tấm màn nhung của một sức sống căn trào; cái suối nguồn của hạnh phúc, của ước ao, của thời ước mơ chưa bị treo giá và cuộc đời chưa vời đến những ca nước lạnh.

Mười bảy tuổi lòng ai không hồi hộp
Ngồi trong rạp hát đợi màn lên
(2)

Tuổi 17 là sự thờ ơ tột độ; người ta chắc mẳm người ta muốn gì, và người ta cũng chắc mẳm người ta đủ biết về cái mình muốn, mặc dù, thật ra, người ta chỉ mới đang ở những bước đầu chập chửng trên con đường của sự thông suốt. Người ta còn vỡ ra nhiều lẽ nữa, và người ta, có lẽ, còn vỡ ra nhiều lần nữa.

Yêu nhau đi anh, không đông già bật khóc. (3)

Bởi vậy, người ta nên yêu khi còn trẻ, cả yêu lẫn được yêu. Hoặc dã thì yêu thôi, cũng được. Trước khi đời vẽ thêm đêm thật dài (4).


2. Lão già mắc dịch Milan Kundera là một lão già mắc toi. Lão lấy điều thích thú khi đem con người ra bỡn cợt, thậm chí thích thú đến độ lão phải kể ra rõ ràng những điều mà ai cũng biết đó. Một cách rõ ràng từng câu từng chữ. Ắt hẳn lão phải thỏa mãn ghê gớm lắm, với việc bốc tách dần lớp màn tâm thức con người bằng ngòi bút , dưới rõ ràng của ngôn từ, nhân danh một sự tiến gần đến sự thật. Ắt hẳn lão phải thích thú cao độ, một khi có dịp nào đó mà hồi tưởng lại chiến công này của mình. Và ắt hẳn lão phải cô đơn cực độ, trên con đường lần tìm đễn bản chất sâu của tâm thức con người, cũng như thói quen phản ứng của nó, hay gọi là thói quen mà nó bị xâm chiếm cũng được.

Lão đã làm rất tốt cái công việc đó, tệ hơn nữa, lão cũng biết là mình đã làm tốt đến chừng nào, và cho một điều tệ hơn nữa, lão còn biết, chắc chắn, người ta cũng sẽ biết như vậy.

Đúng là đồ mắc toi!


3. Nhân tiện thì chữ 'em' trong câu cuối của Mắt người Sơn Tây (Quang Dũng) là nam hay nữ? (là chú bé hay con bé hay thằng bé hay cô bé hay cô gái hay em gái thì còn có thể suy nghĩ, nhưng em bé thì dứt khoát khỏi nghĩ rồi).

Nếu trả lời là nam, thì, chịu khó, xem thêm tại đây.


P.s: Cuối ngày rốt cuộc cũng có một cái gì đó gọi là cười: Sinh nhật tặng quà gì thì tốt? - Tốt nhất là đi mua nơ, cột cổ, chui vào hộp, đậy nắp. 15' là quá nhiều. Đấy là nói tốt nhất, còn không thì ôm một cái, thật nhẹ, cũng đủ xính dính rồi. Phải hông, gái?!



































(1) Lâm Vũ Thao
(2) Lưu Quang Vũ
(3) Chiều Hạ
(4) Trịnh Công Sơn